Thuốc bắc là thuốc được nhân dân ta gọi từ thời xa xưa, dùng để chỉ các loại thuốc sử dụng trong đông y của Trung Quốc. Thuốc bắc được sử dụng rộng rãi ở những nước có ảnh hưởng nền văn hóa từ Trung Hoa và trong cộng đồng người Hoa.
Thuốc nam là những vị thuốc xuất phát từ trong nước, là những cây trồng bản địa rất quen thuộc với người Việt Nam. Một số nơi ở miền Nam còn gọi thuốc Nam là thuốc vườn, vì có thể kiếm quanh vườn. Thầy thuốc nổi tiếng Hải Thượng Lãn Ông, ông tổ của nghề y dược Việt Nam đã từng nói: “Nam dược trị Nam nhân”, tức thuốc Nam dùng chữa bệnh cho người Nam, chính là ý chỉ các vị thuốc trong nước.
Có rất nhiều các cây thuốc Nam được dùng để chữa bệnh đau nhức xương khớp. Tuy nhiên, trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi xin phép chỉ trích dẫn và nêu các vị thuốc tiêu biểu, phổ biến và ít độc tính.
Độc hoạt là tên gọi để chỉ thân và rễ của nhiều loại cây khác nhau. Trong đó một số vị chính là: Xuyên độc hoạt (Radix Angelicae tuhuo). Hương độc hoạt (Radix Angelicae pubescentis); Ngưu vĩ độc hoạt (Radix Heraclei hemsleyani). Cửu nhãn độc hoạt (Rhizoma Araliae cordatae).
Theo các tài liệu cổ, Độc hoạt có vị cay, tính ôn, vào hai kinh can thận có tính chất đuổi phong hàn, khử thấp, hết đau. Chuyên dùng trong các trường hợp bệnh nhân bị phong hàn, các khớp xương và lưng gối đau nhức (bất kể mới đau hay đau lâu ngày), chữa đau đầu, đau răng. Tuy nhiên, những người âm hư hỏa vượng, huyết hư không phong phàn thực tà thì không dùng được.
Phân bổ, thu hái và chế biến. Độc hoạt hiện chưa thấy mọc tự nhiên ở Việt Nam nhưng có nơi đã dùng rễ cây Tiền hồ với tên Độc hoạt. Vào các tháng 4-10, người ta sẽ đào lấy rễ Độc hoạt, cắt bỏ phần thân, rửa sạch đất cát. Sau đó phơi hay sấy khô là được.
Đơn thuốc có Độc hoạt dùng để chữa đau nhức xương khớp: Độc hoạt 5g, đương quy 3g, phòng phong 3g, phục linh 3g, nhân sâm 2g, cam thảo 1g, can khương 1g, phụ tử 1g, đậu đen 5g, nước 600 ml. Tất cả đem sắc đến khi còn 200 ml thì chia thành 3 lần uống trong ngày.
Độc hoạt có vị cay, tính ôn, vào hai kinh can thận có tính chất đuổi phong hàn, khử thấp, hết đau
Cây Hy thiêm còn được gọi là cỏ dĩ, cứt lợn, hy kiêm thảo, chó đẻ, hy tiên hay hổ cao… Tên khoa học là Siegesbeckia orientalis L. Lưu ý: Cây Hy thiêm không phải là cây cứt lợn (Ageratum conyzoides L.) mà ta vẫn dùng để nấu với bồ kết gội đầu hay vò uống lá tươi để chữa bệnh đẻ xong máu chảy nhiều, rong kinh. Đây là một vị thuốc khác.
Theo các tài liệu ghi chép xưa, cây Hy thiêm có vị đắng, tính hàn, hơi độc, vào hai kinh can và thận. Cây chuyên được nhân dân sử dụng để làm thuốc chữa đau nhức, tê thấp, nhức xương, yếu chân, toàn thân bất toại, gân cốt nhức lạnh, lưng gối tê dại.
Phân bổ, thu hái và chế biến. Cây Hy thiêm mọc hoang ở khắp các tỉnh thành trên nước ta. Nó cũng mọc và được dùng ở cả Trung Quốc, Nhật Bản, Philipin, châu Úc và nhiều nước khác. Vì tác dụng chữa bệnh nhanh mà có nơi còn gọi loại cây này là “cỏ của trời”, “cây chữa bệnh nhanh”.
Người ta thường thu hái Hy thiêm khi nó chưa ra hoa, thường vào tháng 4-5 tùy vào từng địa phương. Cây đem về bó thành từng bó nhỏ, phơi khô trong mát mát hay ngoài nắng. Trong Bản thảo cương mục có ghi, Hy thiêm phải nấu và phơi 9 lần mới tốt, dùng tươi có thể gây nôn mửa.
Một số đơn thuốc có Hy thiêm dùng để chữa đau nhức xương khớp:
Hy thiêm sử dụng để làm thuốc chữa đau nhức, tê thấp, nhức xương, yếu chân, toàn thân bất toại…
Thổ phục linh còn gọi là củ khúc khắc, củ kim cang. Tên khoa học là Smilax glabra Roxb.
Thổ phục linh là vị thuốc được dùng trong cả đông y và tây y (tây y dùng với tên Salsepareille). Theo tài liệu xưa, Thổ phục linh có vị ngọt, nhạt, tính bình, vào 2 kinh can và vị. Thường được dùng để khử phong thấp, lợi gân cốt, chữa đau nhức xương khớp…
Phân bổ, thu hái và chế biến . Cây Thổ phục linh cũng mọc hoang ở khắp nơi trên đất nước ta. Cây có thể thu hoạch quanh năm nhưng tốt nhất là vào mùa thu đông. Người ta đào lấy thân rễ, cắt bỏ những rễ nhỏ rồi rửa sạch. Khi rễ đang còn ướt thì thái mỏng sau đó phơi khô. Có nơi để nguyên cả củ để phơi.
Một số đơn thuốc có Thổ phục linh dùng để chữa phong thấp, thấp khớp:
Thổ phục linh thường được dùng để khử phong thấp, lợi gân cốt, chữa đau nhức xương khớp…
Lá lốt có tên khoa học là Piper lolot C. DC. Không chỉ là loại gia vị quen thuộc, lá lốt còn được nhân dân ta sử dụng để làm thuốc sắc uống chữa đau nhức xương khớp, thấp khớp, tê thấp, bệnh tiêu chảy…
Theo nghiên cứu của khoa học hiện đại, lá lốt có nhiều tinh dầu cùng các hoạt chất chống oxy hóa, tiêu biểu nhất là flavonoid, alcaloid. Hai chất này tác động trực tiếp vào cơ chế gây đau nhức xương khớp, từ đó giúp giảm đau, sưng và viêm tấy.
Phân bổ, thu hái và chế biến . Cây lá lốt được trồng rất phổ biến ở nước ta. Lá cây có thể thu hái quanh năm, nhưng nếu dùng rễ thì thường thu hoạch vào tháng 8-9. Cây có thể dùng tươi hoặc hái về phơi khô để dành dùng dần.
Đơn thuốc có lá lốt để chữa đau tay chân, đau khớp, đau lưng:
Lá lốt chữa đau nhức xương khớp hiệu quả
Cây vòi voi còn có tên là cẩu vĩ trùng, đại vĩ đạo. Tên khoa học là Heliotropium anisophyllum P. de B.
Từ lâu, cây vòi voi đã được nhân dân ta dùng để chữa tê thấp, viêm tấy, mụn nhọt, mẩn ngứa. Tuy nhiên, vào năm 1969, người ta phát hiện trong một số loài thuộc Heliotropium có một số ancaloit có độc tính cao đối với gan, gây phân hủy tổ chức gan, đau bụng, ỉa chảy, xuất huyết lan tỏa và làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư. Tính chất này không biểu hiện ngay mà thường diễn ra âm ỉ, kéo dài, khó phát hiện. Vì thế, Tổ chức y tế Thế giới đã khuyến cáo không nên dùng vòi voi làm thuốc và Bộ y tế Việt Nam vào năm 1985 đã ban hành chỉ thị cần thận trọng khi dùng vòi voi chữa bệnh.
Phân bổ, thu hái và chế biến . Cây vòi voi mọc hoang ở khắp mọi nơi, nhất là những bãi hoang, ruộng bỏ không, quanh làng. Ngoài ra, cây cũng xuất hiện ở các vùng Á Đông, Ấn Độ, Lào…
Để làm thuốc, người ta dùng toàn thân cây vòi voi. Cây hái về rửa sạch rồi phơi khô hoặc dùng tươi.
Sử dụng vòi voi chữa sưng đau đầu gối với các biểu hiện: trước khi phát bệnh người bệnh mỏi đầu gối, 3 hôm sau vùng đầu gối sưng đỏ và to lên, người sốt nhẹ, không đi lại được. Dùng cây vòi voi tươi chặt thành các đoạn nhỏ, giã dập, bỏ vào nồi sao với dấm hoặc rượu, rồi gói vào miếng vải, buộc vào vết thương. Làm như vậy trong một năm.
Từ lâu, cây vòi voi đã được nhân dân ta dùng để chữa tê thấp, viêm tấy, mụn nhọt, mẩn ngứa
Ngải cứu là cây có hương thơm đặc biệt, vị đắng và tính ấm, có khả năng chữa trị nhiều bệnh. Riêng với đau lưng, gai cột sống thì cây giúp giảm đau rất hữu hiệu.
Bài thuốc chữa bệnh xương khớp bằng ngải cứu:
Ngải cứu chữa đau lưng, gai cột sống, giảm đau rất hữu hiệu
Cỏ trinh nữ hay còn gọi là cây xấu hổ, có tính hàn và vị ngọt. Người ta thường lấy rễ và cành lá để phơi khô, làm thuốc. Trong đông y thì cỏ này được dùng để hạ áp hay làm dịu cơn đau khá hữu hiệu.
Bài thuốc chữa bệnh xương khớp từ trinh nữ:
T
rong đông y, cây Trinh nữ được dùng để làm dịu cơn đau khá hữu hiệu
Cỏ xước hay còn gọi là ngưu tất nam, là loại cây thân thảo vừa được dùng như thực phẩm vừa có tác dụng chữa các chứng phong thấp, thoát vị đĩa đệm hay viêm đa khớp ở dạng thấp…
Cách chữa bệnh xương khớp bằng cỏ xước:
Cây cỏ xước có tác dụng chữa các chứng phong thấp, thoát vị đĩa đệm hay viêm đa khớp ở dạng thấp…
Hạt gấc dẹt, tròn, có vỏ ngoài cứng rắn, màu nâu đen. Phần nhân vàng nhạt trong hạt gấc đen có rất nhiều protid, glucid, lipid cũng như các vitamin, các men phophotoba, vv… Đây đều là các chất trị đau khớp và vết thương rất tốt.
Cách chữa bệnh xương khớp từ hạt gấc:
Cà gai leo là loại cây thường mọc trong vườn hoặc sau nhà, phát triển khỏe mạnh, tự nhiên. Theo đông y, đây là một vị thuốc quý trị thoái hóa khớp, đau nhức xương khớp, viêm sụn khớp do thời tiết gây nên.
Bài thuốc chữa thoái hóa xương khớp từ cà gai leo:
Cây đinh lăng mọc khắp nơi thường được dùng ăn sống hoặc kho cá. Theo đông y, cây đinh lăng (bao gồm cả lá, thân, rễ) có công dụng chữa bệnh xương khớp hiệu quả.
Bài thuốc chữa thoái hóa xương khớp từ là đinh lăng:
Các vị thuốc chúng tôi giới thiệu trong bài chỉ mang tính chất tham khảo. Bệnh nhân không nên tự mua hoặc hái về sử dụng. Nhất là với những vị thuốc có tính độc dược cao.
Bởi biết đúng cây thuốc rồi nhưng để sử dụng hiệu quả, đảm bảo được hiệu lực thực tế của cây thuốc, ta cũng cần thu hái đúng mùa, đúng lúc cây thuốc có chứa nhiều hoạt chất nhất (ví dụ: quả chín thì ngọt, quả xanh thì đắng chát, chua); dùng đúng bộ phận để làm thuốc (ví dụ: dầu thầu dầu uống vào có tác dụng tẩy, nhưng hạt thầu dầu ăn vào có thể gây ngộ độc chết người; mầm khoai tây ăn vào gây ngộ độc chết người, nhưng chất Solanin trong mầm khoai tây lại có tác dụng giảm đau); chế biến phải đúng phép (ví dụ: hạt thảo quyết minh dùng sống thì gây tẩy hay nhuận tràng, nhưng sao vàng hay sao đen thì không còn công dụng tẩy nữa).
Ngay cả việc sử dụng thuốc khô hay thuốc tươi nhiều khi cũng mang lại kết quả khác nhau (ví dụ: Hy thiêm dùng tươi có thể gây nôn mửa, nhưng Hy thiêm khô lại chữa đau nhức hiệu quả), bởi trong quá trình phơi sấy, một số chất có thể bị phá hủy.
Vậy nên, công tác bào chế và sử dụng thuốc nam là việc hết sức quan trọng.
Bệnh nhân nên tới các cơ sở khám chữa bệnh y học cổ truyền uy tín để được thầy thuốc thăm khám và bốc thuốc
Để có thể sử dụng thuốc an toàn và hiệu quả, bệnh nhân nên tới các cơ sở khám chữa bệnh y học cổ truyền uy tín để được thầy thuốc thăm khám và bốc thuốc . Tuy nhiên, cũng cần phải lưu ý rằng, hiện nay có hai loại người làm thuốc.
Một loại chỉ có kinh nghiệm chữa bệnh, không biết hay ít biết lý luận, kinh nghiệm cứ cha truyền con nối mà tồn tại, phát huy.
Loại người thứ hai là biết dùng thuốc nhưng thêm phần lý luận. Những người này trong quá trình điều trị hay chế thuốc đều vận dụng những cơ sở lý luận đặc biệt của y học cổ truyền, biết biện chứng luận trị để kê đơn thuốc phù hợp với thể trạng của bệnh nhân, biết kê những đơn thuốc căn cứ vào triệu chứng và nguyên bệnh mà mình chẩn đoán được bằng phương pháp tây y, rồi dựa vào tính vị công năng của từng vị thuốc mà thay đổi cho thích hợp, chủ động được những vị thuốc có sẵn trong nước hay địa phương mà không phải nhập khẩu đắt tiền.
Nguồn bài viết:
Giá trên 1SP
5 x 0 đ
Tổng giá
0 đ